Lời tựa cho Cuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đại

GIỚI THIỆU  CẢM NGHĨ

Cho quyển Cuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đại1

NGUYỄN XUÂN XANH

Lời nói đầu. Dưới đây là bài viết giới thiệu quyển Cuộc cạnh tranh Chất xám vĩ đại của tác giả Ben Wildavsky, người dịch: Tô Diệu Lan, của Đại học Hoa Sen và nxb Tri Thức, trong khuôn khổ kỷ niệm 200 năm Kỷ yếu Đại học Humboldt về đại học thế giới. Nay xin giới thiệu lại với độc giả. NXX (Nov2017)

(1)

Cuộc Cạnh Tranh Chất Xám Vĩ Đại (The Great Brain Race) của tác giả Ben Wildavsky, một học giả có tiếng Hoa Kỳ, là một quyển sách rất hay nếu không muốn nói là tuyệt vời, rất súc tích và uyên bác, đã vẽ lên từ rất nhiều góc cạnh khác nhau, từ những thông tin tản mạn, một bức tranh tổng thể cuộc cạnh tranh toàn cầu nhằm thu hút tài năng trí tuệ từ mọi miền thế giới, và sự chạy đua nâng cấp hệ thống giáo dục đại học thế giới. Quyển sách ra đời trong sự đón nhận nồng nhiệt của nhiều học giả, các tạp chí tên tuổi và giới truyền thông đại chúng. Ben Wildavsky đã cho mọi người thấy xuyên suốt và thấu đáo “toàn cầu hoá đang biến đổi nền giáo dục đại học thế giới như thế nào” (Richard Levin). Cạnh tranh kinh tế là động lực phát triển của giáo dục đại học thế giới. Cuộc chạy đua kinh tế thực chất là cuộc chạy đua khoa học công nghệ (KHCN). Các đại học tạo ra tri thức và tinh hoa cho xã hội, do đó sẽ ảnh hưởng quan trọng lên việc định hình thế giới trong thế kỷ 21. Hai trăm năm qua thực tế đã như thế, kể từ lúc đại học nghiên cứu Đức của Humboldt ra đời. Hệ thống đại học cạnh tranh còn là yếu tố “an ninh kinh tế”, và an ninh quốc phòng của một quốc gia nữa. Mất đại học cạnh tranh sẽ là một sự thua thiệt lớn lao cho kinh tế và quốc phòng.

Bản đồ đại học và KHCN thế giới sẽ từng bước được vẽ tiếp. Khắp nơi, các chính phủ đều lao vào đầu tư những số tiền khổng lồ nâng cấp các đại học thành những thể chế học thuật ‘đẳng cấp thế giới’: từ các quốc gia của châu Âu, cái nôi của đại học, như Đức, Pháp; đến các quốc gia mới nổi lên như Saudi Arab, Trung Quốc; từ châu Á đến châu Phi, châu Mỹ. Các đại học đẳng cấp thế giới có nhiệm vụ vừa đào tạo tinh hoa, tránh thất thoát chất xám, vừa thu hút chất xám thế giới. Nhiều quốc gia đã bị thất thoát chất xám, brain drain, kể cả những nước phát triển, nhưng họ cố gắng bù đắp lại bằng cách thu hút chất xám, brain gain, hay bằng cách ‘đảo ngược brain drain’ với những chiêu thức thu hút hấp dẫn.

Saudi Arab, một xứ sở của sa mạc và dầu hoả, cũng tham vọng trở thành quốc gia có đại học đẳng cấp thế giới bằng việc đầu tư 10 tỉ đô la Mỹ (!) vào đề án khổng lồ KAUST (cái tên na ná KAIST, Viện khoa học khoa học công nghệ tiên tiến của Hàn Quốc), đại học khoa học-công nghệ Vua Abdullah, người trực tiếp bỏ tiền ra, để đưa nền học thuật trở lại thời đại vàng son Hồi giáo, và để thu hút chất xám làm ‘xanh tươi’ đất nước sa mạc, và cho cả vùng Ả rập rộng lớn. Số tiền này mới chỉ là vốn khởi động; trong khi số vốn đầu tư được chờ đợi lên đến con số 25 tỉ đô la Mỹ, chỉ đứng thứ hai sau Harvard. Vua Abdullah cũng cho phép KAUST không chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục, do bộ này nổi tiếng quan liêu.

Trung Quốc là một ‘tay chơi’ đầy tham vọng khác, từ thập niên 90 đã đầu tư nhiều chục tỉ đô la Mỹ để nâng cấp một trăm trường đại học và tập trung tạo ra chín trường đẳng cấp quốc tế, tập hợp dưới cái tên C9, một kiểu Ivy League của Trung Quốc (Phúc Đán, Nam Kinh, Học viện Công nghệ Cáp Nhĩ Tân, Bắc Kinh, Giao thông Thượng Hải, Thanh Hoa, Đại học Khoa học Công nghệ An Huy, Giao Thông Tây An, Chiết Giang). Ấn Độ đang nỗ lực nhân rộng mô hình IIT, Indian Institute of Technology, Học viện công nghệ Ấn Độ, nơi ươm tài năng Ấn độ nổi tiếng và được thành lập từ thập niên 50 lúc quốc gia giành lại độc lập. ITT là một niềm tự hào dân tộc. Các công ty toàn cầu như Boston Consulting và McKinsey hằng năm đến để đón bắt các tài năng giỏi, sáng chói nhất của Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ đã không làm những cuộc bứt phá, và hiện nay, tuy đi trước rất lâu, nhưng bị coi là tụt lại phía sau Trung Quốc. Đức, Pháp cũng bỏ ra hàng nhiều tỉ euro để thiết lập những đại học trác việt nhằm thu hút tinh hoa thế giới và chen chân lên đầu các bảng xếp hạng toàn cầu.

Hai quốc gia châu Á có diện tích và số dân khiêm tốn nếu không muốn nói là nhỏ, nhưng có những nỗ lực phi thường trong giáo dục đại học và nghiên cứu; và họ đã thành công xuất sắc: Hàn Quốc và Singapore. Mục đích chung của họ là nâng cao nghiên cứu thành những trung tâm khoa học công nghệ trác việt để có sức cạnh tranh thế giới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ chân sinh viên lại, và thu hút chất xám quốc tế. Đó là để ‘nâng tầm phát triển quốc gia’. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ bắt buộc chung, lingua franca, trong thế giới hàn lâm và kinh doanh. Họ xây dựng trên các cơ sở hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài, phần lớn với Hoa Kỳ, và thuê các nhà khoa học, quản lý hàng đầu. Năm 2008, Hàn Quốc đưa ra ‘chương trình các đại học đẳng cấp thế giới’ với quỹ 800 triệu đô la Mỹ cho 5 năm nhằm ‘nhập khẩu’ các giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, thường là bán thời gian. 1.000 nhà khoa học đã nộp đơn trong mười tháng đầu, trong đó 40% đến từ Hoa Kỳ, có cả nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel. Hàn Quốc hy vọng những nhà khoa học này sẽ xây dựng các chương trình nghiên cứu chuyên ngành, hoặc các ngành khoa học mũi nhọn mới.

Singapore là quốc gia hợp tác có lẽ mạnh mẽ nhất với các đại học hàng đầu Hoa Kỳ. Họ đã nhắm mục tiêu đem mười đại học quốc tế vào, và đã thành công với sáu đại học. Đặc biệt, năm 2007, họ đã đưa được MIT vào trung tâm nghiên cứu tại khuôn viên nghiên cứu quốc gia CREATE (Campus for Research Excellence and Technological Enterprise). Năm 2007, họ cũng thành lập Singapore International Graduate Award, SINGA, một loại học bổng sau tiến sĩ dành cho sinh viên ngoại quốc muốn tiếp tục nghiên cứu tại hai đại học NUS và NTU. Mỗi năm có khoảng 240 học bổng SINGA được cấp, với những tiêu chuẩn chọn lọc chặt chẽ. Tuy chương trình kết nối với các đại học hàng đầu nước ngoài không phải lúc nào cũng thành công, một số đại học ‘bỏ cuộc’ (Warwick, Johns Hopkins, New South Wales), nhưng nói chung, Singapore đã rất thành công trong nỗ lực của mình để trở thành một powerhouse của tri thức toàn cầu.

(2)

Cuộc chạy đua đại học thế giới được tăng tốc từ một phát súng của những ý tưởng ‘điên rồ’ về xếp hạng, ranking, các đại học thế giới vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu 21. Năm 1997, tạp chí Asiaweekđã làm một cuộc xếp hạng, nhưng chỉ giới hạn vào các đại học châu Á. Năm năm sau, 2002, Trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ của Thuỵ Sĩ công bố ‘liên đoàn của các quán quân’, champion league, dành cho các đại học và viện nghiên cứu dựa trên các bài báo đăng trên các tạp chí nghiên cứu khoa học. Nhưng bảng xếp hạng quy mô đầu tiên cho đại học thế giới được công bố năm 2003 dưới cái tên Academic Ranking of World Universities, ‘Xếp hạng hàn lâm của các đại học thế giới’, của Viện Giáo dục đại học của Đại học Giao thông Thượng Hải, được nhiều người xem là bảng xếp hạng có ảnh hưởng lớn nhất. Đằng sau bảng xếp hạng này là Nian Cai Liu (Lưu Niệm Tài), Giáo sư hoá và hoá công nghệ. Các nhà quản lý của đại học Giao thông quan ngại về sự giảm sút chất lượng của đại học, bắt đầu làm một cuộc đánh giá vị trí của đại học mình so với các đại học khác.

Sự đánh giá này xuất hiện đúng vào lúc Trung Quốc đang bước vào trường đua đầy tham vọng để tạo ra chùm đại học đẳng cấp thế giới, cho nên họ cần phải có thước đo. Họ chấp nhận một sự cạnh tranh công khai. Đại học Bắc Kinh đặt chỉ tiêu sẽ trở thành ‘đẳng cấp thế giới’ năm 2016, Đại học Thanh Hoa năm 2020. Theo ông Liu, có 4 triệu lượt vào Bảng xếp hạng Thượng Hải này năm 2003, tức trung bình 2.000 lượt/ngày. Mười đại học hàng đầu thế giới trong danh sách có tên: Harvard, Stanford, Berkeley, Cambridge, MIT, Caltech, Columbia, Princeton, Chicago và Oxford. Tất cả đều là đại học Hoa Kỳ, ngoại trừ hai đại học Anh là Cambridge và Oxford, một trọng lượng rất lớn cho nền đại học Hoa Kỳ. Xếp hạng Thượng Hải xem trọng các tiêu chí như hàng giáo sư đẳng cấp với các vị có giải Nobel hay giải Fields hoặc các giải thưởng danh giá khác; các bài báo đăng trên các tạp chí tên tuổi như Nature hay Science; các chỉ số trích dẫn…

Một năm sau, 2004, báo Times Luân Đôn đưa ra bảng xếp hạng Times Higher Education Supplement, viết tắt THES. Các tiêu chí này khác hơn, ‘toàn diện hơn’ (holistic), như số sinh viên tốt nghiệp làm ở những công ty toàn cầu, tỉ lệ giáo sư nước ngoài, tỉ lệ sinh viên/giáo sư khiến cho các đại học Hoa Kỳ bị rớt hạng và các đại học Anh tăng hạng. Các tiêu chí của THES thay đổi nhiều năm sau đó, với những hệ quả khác nhau. Năm 2008, mười đại học hàng đầu của THES có tên Harvard, Yale, Cambridge, Oxford, Caltech, Imperial College London, University College London, Chicago, MIT, và Columbia. Hoa Kỳ chỉ còn 6, thay vào đó Anh có 4. Khác nhiều so với bảng xếp hạng của Thượng Hải. Ngoài ra, năm 2009, các đại học Hoa Kỳ trong bảng 100 đại học hàng đầu thế giới của THES bị thu hẹp từ 42 xuống còn 36. Đã xuất hiện nhiều lời chỉ trích, dĩ nhiên.

Châu Âu đang nỗ lực tạo ra một bảng xếp hạng mới: “Bảng xếp hạng đại học toàn cầu đa chiều” (viết tắt U-Multirank) để chú ý hơn các yếu tố khác và các ngành khoa học nhân văn, xã hội, chất lượng giảng dạy, đầu ra… Hiện đã có vài chục bảng xếp hạng, phần lớn mang tính chất địa phương hay khu vực.

Nhiều người không đồng tình với việc xuất hiện của các bảng xếp hạng, sự ra đời của xếp hạng tự nó là vấn đề (Valérie Pécresse, Bộ trưởng Giáo dục đại học Pháp). Sự tranh cãi diễn ra khắp nơi. Uwe Brandenburg, giám đốc “Trung tâm phát triển giáo dục đại học” của Đức đã mượn lời nhà bác học Albert Einstein để nêu lên tính tranh cãi: “Không phải cái gì có thể đếm được là có giá trị, và không phải cái gì có giá trị là có thể đếm được”.

Nhưng dù mỗi bảng xếp hạng có những quan điểm chủ quan khác nhau có thể tranh cãi, các bảng đánh giá trên có ảnh hưởng rất lớn không thể chối cãi lên dư luận, sinh viên, nhà quản lý, nhà làm chính sách, chính phủ. GS Philip G. Altbach của Đại học Boston nhìn nhận rằng các hình thức xếp hạng và các ‘bảng liên đoàn’ có một ‘vai trò hữu ích’ vì ‘soi sáng các mặt then chốt của thành tựu hàn lâm’ (cũng như những thất bại). Một ‘phong trào’ nâng cấp đại học hình thành. Một số đại học thuê cả các giáo sư đoạt giải Nobel hy vọng có hạng cao hơn. Các “sáng kiến trác việt” từ Đức, Nga, Trung Quốc và Pháp xuất hiện như để đáp lại sự thách thức của các bảng xếp hạng. “Tốc độ cải cách giáo dục đại học có vẻ nhanh hơn với niềm tin rằng các thể chế tinh hoa, cạnh tranh, và tốt hơn sẽ được đánh giá cao hơn”, như bà Ellen Haselkorn, người đặc trách của tổ chức OECD về 202 các đại học hàng đầu của bốn mươi mốt quốc gia, viết. Nhưng nó cũng tạo ra những mặt ‘tiêu cực’ khác. Chẳng hạn một số nhà quản lý đại học được khen thưởng bằng hiện vật (Úc), và một vài người khác bị sa thải (Mã Lai). Gần đây, bà Ellen Haselkorn đi đến kết luận: chính thức kêu gọi thế giới và các tổ chức quốc tế hãy nói ‘không’ với xếp hạng. Tuy nhiên, có hay không các bảng xếp hạng, cuộc chạy đua của giáo dục đại học thế giới cũng vẫn luôn diễn ra.

(3)

Thế giới bước vào thời đại toàn cầu hoá tri thức và giáo dục. Môi trường văn hoá đại học thế giới ngày càng gần gũi nhau: dân chủ, văn minh, hiện đại, trọng đãi tài năng, tự quản, tự do hàn lâm, học thuật, đó là nền tảng các giá trị phổ quát. Các ‘công dân mới’ tốt nghiệp từ các đại học thế giới có thể cảm thấy gần gũi hay gắn bó với văn hoá đó hơn cả với văn hoá quê nhà. Các sinh viên tài năng của các nước đang phát triển chỉ mơ “nhập học vào Harvard sẽ thay đổi đời tôi”. Thực tế họ mơ các đại học ở các quốc gia phát triển lâu đời như mơ đặt chân đến một miền đất hứa. Cộng đồng hàn lâm dần dần gắn bó với quê hương chung là cộng hoà hàn lâm xuyên biên giới hơn là quê hương sinh trưởng của mình. Các lãnh đạo thuộc superclass trong các ngành ngân hàng, đại công ty, công ty đầu tư, chính phủ, quân đội, đại học, tổ chức truyền thông đại chúng, ngay cả tôn giáo của thế giới đều dễ có quan hệ với nhau từ các ‘trường đại học mẹ’, alma mater, mà họ đã kinh qua. Điều đó cho thấy giới superclass này có mối liên thông thế nào. Sinh viên ngày càng sẵn sàng đi xa cha mẹ sớm hơn, có tính mạo hiểm hơn, và các bậc cha mẹ cũng khuyến khích điều đó. Con người có thể tìm việc bất cứ nơi đâu, miễn cạnh tranh thắng lợi. “Điều quan trọng không phải là bạn làm gì và sống ở đâu, nhưng là bạn biết gì”, như Tổng thống Obama nói; và một học sinh, sinh viên ở Dayton không phải chỉ cạnh tranh với đồng bạn ở Detroit, Chicago hay Los Angeles, mà còn phải cạnh tranh với các trang lứa ở Bắc Kinh hay Delhi.

Vốn nhân lực, human capital, của một quốc gia là phần chủ yếu nhất tạo nên sự phồn vinh của các quốc gia. Thế kỷ 20 là thế kỷ của vốn nhân lực mà Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu. Con đường đi tới thành công cho quốc gia và cá nhân cuối cùng chính là sự đầu tư vào vốn nhân lực. Một cộng đồng được giáo dục có thể chưa chắc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự kết nạp vào ‘câu lạc bộ hội tụ’ (convergence club) của các quốc gia phát triển. Nhưng điều ngược lại chắc chắn đúng: Trình độ giáo dục thấp ngăn cản một quốc gia tiến tới biên giới công nghệ và hưởng lợi đầy đủ từ nền kinh tế toàn cầu (C.Goldin và L.Katz). Vốn ấy ngày nay đang chuyển động toàn cầu, để tôi luyện. Họ là những người mang đầy ý tưởng và kỹ năng, skills. Theo Wildavsky, Nếu như giới hạn thương mại gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như cản trở tính sáng tạo kinh tế, thì đóng cửa đối với dòng chảy tự do của con người và ý tưởng là cản trở sự tạo ra tri thức vốn là máu thịt của những thành công kinh tế. Tri thức, và tài năng là những ‘hàng hoá’ không thể giam hãm hay đóng kín mà không gây thiệt hại cho chính mình. Phải làm sao để có sự trao đổi nhiều hơn, có nhiều ‘hàng hoá’ hơn.

Sự ‘di dân’ trong giai đoạn 1999-2005 tiếp tục tăng đáng kể, nhưng với một sự phân bố có khác hơn trước đây: số sinh viên nước ngoài tăng 17% cho Hoa Kỳ, 29% cho Anh quốc, 42% cho Úc, và 46% cho Đức. Những con số này cũng cho thấy tỉ lệ tăng trưởng tương đối của Hoa Kỳ có phần giảm. Các quốc gia có kế hoạch ráo riết thu hút sinh viên nước ngoài để tăng thị phần hay đẩy lùi sự suy giảm. Singapore đang kỳ vọng thu hút 150.000 sinh viên cho đến năm 2015; Malaysia 100.000 đến năm 2020. Ngay cả Trung Quốc, quốc gia đang thu hút 196.000 sinh viên, đa số là sinh viên từ các quốc gia châu Á, cũng nhắm đến con số 300.000 đến năm 2025. Đại học đã trở thành thị trường, marketplace, với nhiều người mua kẻ bán, và với tính năng động cao, high mobility.

Không những chất xám trẻ, sinh viên, mà cả chất xám của người trưởng thành, người về hưu, các giảng viên, và cả những nhà quản lý giỏi, trở thành những hàng hoá được thị trường săn đuổi. Tri thức và tài năng luôn luôn có cơ hội được bước lên những bệ phóng cao. Sinh viên cũng tỏ ra năng động hơn, không phải học suốt một chỗ, có thể học cử nhân tại đâu đó, có thể tại nhà, làm thạc sĩ ở Anh, và nghiên cứu tại Mỹ chẳng hạn. Không chỉ có sự di chuyển chất xám xuyên biên giới, mà các công trình nghiên cứu quốc tế cũng có tính chất xuyên biên giới thông qua sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu của nhiều quốc gia khác nhau. Nhiều đại học hỗ trợ một sự hợp tác nghiên cứu xuyên quốc gia, với yêu sách con người hàn lâm cần phải có những cái nhìn xa, và hiểu biết văn hoá các miền đất khác. Họ khuyến khích việc trao đổi sinh viên. Văn hoá được toàn cầu hoá. Chủ tịch Richard Levin của Đại học Yale là một người chủ trương mạnh mẽ nhất phát triển đại học ra ngoài biên giới. “Chúng tôi muốn đào tạo sinh viên thành những nhà lãnh đạo của thế kỷ 21, và sinh viên không thể là những người ‘mù chữ văn hoá xuyên biên giới’”, Levin nói. “Ngoài kia có những tiềm năng lớn hơn”, “Mỗi người tốt nghiệp ở Yale phải là một người bạn quốc tế”. “Chúng tôi tự hào nói rằng không những đã đào tạo bốn trong sáu vị tổng thống vừa qua của Hoa Kỳ, mà còn một vị tổng thống Đức, hai thủ tướng của Hàn Quốc và một tổng thống của Mexico. Chúng tôi muốn thấy con số này tăng thêm.” Ông chưa kể thêm: một tổng thống, và một phó tổng thống của Phi Luật Tân. Dĩ nhiên chưa có ai là người Việt Nam được vinh dự bước vào danh sách đó.

Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại
Người dịch: Tô Diệu Lan. Đại học Hoa Sen, và nxb Tri Thức, 2012.

(4)

Cuộc di dân, migration, của học giả và sinh viên từ quốc gia này sang quốc gia khác đã bắt đầu từ thế kỷ 12 lúc các đại học đầu tiên châu Âu, Bologna, Paris, Oxford được thành lập vào lúc châu Âu bắt đầu ra khỏi đêm dài của thời kỳ đen tối (dark ages). Đó là các đại học tiền thân của đại học hôm nay. Cuộc di dân diễn ra không ngừng từ đó, di dân vì đi tìm tự do, tìm đến học thuật, tri thức. Xã hội ngày càng phát triển thì tri thức ngày càng được quý trọng.

Đầu thế kỷ 19, với sự ra đời của đại học Humboldt tại Berlin như mô hình đại học nghiên cứu, thống nhất nghiên cứu và giảng dạy, có nhiều tự do hàn lâm, lấy khoa học và học thuật làm trọng tâm đào tạo, thì nền đại học có một sự phát triển vượt bậc hơn tất cả thời đại nào trước đó. Đại học trở thành các trung tâm văn hoá. Nghiên cứu trở thành phẩm chất, qualification, và tiêu chuẩn đo lường cho sự nghiệp đại học. Tinh thần khoa học lan toả vào tất cả các ngành học, kể cả khoa học nhân văn, khoa học thực nghiệm, và trở thành tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Đại học Đức đã góp phần vào cuộc công nghiệp hoá thành công của Đức, giúp nước Đức lạc hậu đầu thế kỷ 19 vươn lên ngang bằng với các cường quốc Anh, Pháp vào cuối thế kỷ 19. Vào hậu bán thế kỷ 19, đại học Đức đã ảnh hưởng lên toàn thế giới: châu Âu, Anh quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và cả Trung Quốc. Đức đã trở thành ‘thánh địa’ để cho sinh viên và nhà giáo dục đại học thế giới hành hương. Người ta nói đến “bá quyền khoa học Đức” (german scientific hegemony). Trong vòng một trăm năm đại học Đức đã giữ vững ngọn đuốc trí tuệ sáng chói của thế giới. Thế kỷ 19, kéo dài đến đầu thế kỷ 20, có thể nói là thế kỷ của đại học Đức.

Thế chiến thứ II nổ ra, chủ nghĩa quốc xã của Hitler và những kẻ cuồng tín đã phá tan nền đại học đỉnh cao đó của nhân loại, gây ra một cuộc di tản khổng lồ của các nhà khoa học hàng đầu lục địa châu Âu qua Tân thế giới Hoa Kỳ, trong đó Einstein là biểu tượng. Sau thế chiến thứ II, Hoa Kỳ với tiềm năng ưu việt của mình, với truyền thống và chính sách phát triển đúng đắn của mình, trong vòng vài thập kỷ tiến lên phát triển đại học thành ngọn đuốc trí tuệ rực rỡ nhất thế giới, kéo dài mãi đến hôm nay. Chưa bao giờ đại học có một cuộc phát triển vũ bão như trong giai đoạn sau thế chiến. Nó cũng gắn liền với giai đoạn phát triển kinh tế, công nghệ vũ bão thời hậu chiến và chiến tranh lạnh. Tri thức giờ đây là “khu vực đầu tàu” của tăng trưởng kinh tế! “Những gì mà ngành đường sắt đã làm được cho nửa sau của thế kỷ qua (19) và ngành công nghiệp ôtô cho nửa đầu thế kỷ này (20) thì ngành công nghiệp tri thức có thể làm được cho nửa sau thế kỷ này: nghĩa là nó phục vụ cho sự tăng trưởng quốc gia như tâm điểm” (Clark Kerr). Hoa Kỳ đã đặt đúng vị trí mô hình đại học Đức trong context của mình: là khoa học, nhân văn, nghiên cứu, đào tạo và phục vụ cộng đồng, một truyền thống tốt đẹp của Hoa Kỳ từ thời lập quốc và phát triển mạnh mẽ từ sau cuộc Nội chiến. Đặc tính đại học Hoa Kỳ là dựa trên tính ‘mô-đun’ cho phép thêm bớt bất kỳ, cho phép dạy và nghiên cứu tất cả các môn, và ở mọi trình độ. Tính mô-đun với một số lượng lớn các môn chọn cho phép thầy và trò thực hiện các nguyên lý ‘tự do dạy’, Lehrfreiheit, và ‘tự do học’, Lernfreiheit, của Humboldt. Có thể nói, Đại học Hoa Kỳ là Đại học Humboldt mở rộng. Thế kỷ 20 là thế kỷ của đại học Hoa Kỳ. Đại học phát triển thành multiversity, đa đại học, và cụm đại học. Đại học Hoa Kỳ trở thành mô hình mà các quốc gia khác noi theo, cũng như Hoa Kỳ đã từng noi theo mô hình đại học Đức thế kỷ 19.

Năm 1987, Henry Rosovsky, cựu chủ nhiệm khoa của khoa Arts and Sciences ở Harvard, đã có thể viết một cách hãnh diện:

Trong những ngày này, khi mà các đối thủ kinh tế nước ngoài dường như đang qua mặt chúng ta trong hết ngành này đến ngành khác, chúng ta cần tái khẳng định để biết rằng có một ngành công nghiệp sống còn mà ở đó Hoa Kỳ át hẳn thế giới không thể tranh cãi được: lãnh vực giáo dục đại học. Khoảng từ hai phần ba đến ba phần tư đại học tốt nhất của thế giới đều nằm tại Hoa Kỳ. Nhiều nhà phê bình nền giáo dục đại học ở Mỹ đã quên đi sự thật này. […]

Trong giáo dục đại học, “Made in America” vẫn là cái nhãn hiệu bảnh nhất. Do đó lời khuyên của tôi là “Hãy đối xử cẩn thận”, để chúng ta khỏi rơi xuống mặt bằng năng suất của phần lớn các công nghiệp khác của Mỹ.

Đại học Hoa Kỳ đã thu hút một lượng cao nhất sinh viên từ khắp thế giới, tiếp theo sau là đại học các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Đức, Úc. Trong số 572.509 sinh viên nước ngoài học tại Hoa Kỳ năm 2004 có hơn một nửa đến từ châu Á: năm quốc gia hàng đầu là Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Trung Quốc và Ấn Độ cũng là các nước hàng đầu có số lượng du học sinh tại Anh, với tổng số 69.000 trong số 318.390 sinh viên nước ngoài tại Anh năm 2005. Trung Quốc và Ấn Độ cũng chiếm tỉ lệ sinh viên hàng đầu như thế tại Úc. Pháp thu hút một số lớn sinh viên từ các nước truyền thống như Algeria, Morocco và Tunisia. Đức có số sinh viên từ Trung Quốc lớn nhất, tiếp theo là các quốc gia Đông Âu như Ba Lan, Nga, Bulgaria, Hungary, cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, và một số nước Ả rập.

(5)

Giáo dục đại học trở thành một business, một ngành kinh doanh rất màu mỡ. World Bank ước tính doanh thu 400 tỉ đô la Mỹ mỗi năm dành cho khu vực tư nhân. Sự hấp dẫn đó đã làm hình thành một chuỗi các đại học vì-lợi nhuận, for-profit, ngược với truyền thống đại học-phi lợi nhuận, đặc biệt tại Hoa Kỳ là nơi có rất nhiều đại học tư phi-lợi nhuận nổi tiếng và mẫu mực thế giới. Loại đại học này tăng trưởng mạnh mẽ tại châu Á và châu Mỹ La Tinh, nơi hệ thống đại học công không theo kịp sự tăng trưởng nhanh của sinh viên. Nếu năm 2001 thế giới có 90 triệu sinh viên mới thì hai năm sau con số này đã vượt 100 triệu (TQ chiếm tỉ lệ lớn). Và năm 2006 nó lên đến 115 triệu. Sự phồn vinh của giai cấp trung lưu là lý do của sự tăng trưởng. Một chuyên gia giáo dục của Công ty tài chánh IFC của Ngân hàng thế giới ước tính tại 8 quốc gia có dân số cao nhất, số sinh viên ghi danh từ 1991 đến 2001, trong 10 năm, đã tăng lên 260% lần, và phần lớn sự tăng trưởng này được hấp thu vào khu vực tư. Tại Indonesia, năm 2004, 334.000 nộp đơn tranh nhau chỉ 80.000 chỗ. Dĩ nhiên số còn lại phải tìm cách khác, đi ra nước ngoài chẳng hạn. Những con số của Ben Wildavsky gây ngạc nhiên: giáo dục vì-lợi nhuận đã chiếm thị phần cực kỳ cao: 80% tại Hàn Quốc, 77% tại Nhật Bản, 75% tại Ấn Độ và Brazil, 68% tại Philippines, Indonesia và Columbia, và 63% tại Bỉ. Tại Mexico và ngay tại Hoa Kỳ, con số cũng không nhỏ: 33 và 32%. Trong khi đa số các trường đại học vì-lợi nhuận là của các nước sở tại, thì có một nhóm ‘tay chơi’ quốc tế bước vào cuộc, xuất phát từ Hoa Kỳ: Laureate Education, Whitney International, Apollo Global, University of Phoenix, Kaplan Inc., DeVry Inc. Laureate có hơn 150 campus tại Bắc Mỹ, Mỹ La Tinh, châu Âu và châu Á. Họ dạy nhiều trình độ về kỹ sư, giáo dục, kinh doanh, chăm sóc sức khoẻ, công nghệ thông tin. Công ty đã có tăng trưởng 30%/năm trong sáu năm qua, với doanh thu hằng năm 2 tỉ đô la Mỹ! Nhưng cũng không chỉ các công ty Hoa Kỳ. Raffles Education đóng tại Singapore có các campus tại Úc, Ấn Độ, Malaysia và Hồng Kông. Và một số hoạt động đa quốc gia khác nhỏ hơn.

Có nhiều ‘biến tướng’ trong thế giới đại học vì-lợi nhuận. Một dạng ‘lưỡng thể’: học địa phương hai năm, ra nước ngoài tu nghiệp hai năm, hay đại loại. Hình thức này thường đòi hỏi cao hơn về chất lượng ở sinh viên. Hay các hình thức hợp tác giữa đại học phi-lợi nhuận và vì-lợi nhuận. Hoặc các hình thức học ảo, giảng dạy ảo, giảng đường ảo, trên mạng toàn cầu, không thầy, không campus, không tất cả. Học và dạy một cách ‘vô danh’.

Các đại học vì-lợi nhuận hay đại học ảo đang là vấn đề tranh luận lớn. Một mặt các đại học đó vừa giải phóng các đại học tinh hoa, giảm áp lực, đồng thời cũng ‘đe doạ sự tồn tại của đại học nghiên cứu-tập trung’. Chúng ta phải rất thận trọng trước cơn ‘đại hồng thuỷ’ này (G. Casper). Đại học vì-lợi nhuận có là đối trọng của các đại học tinh hoa? Không. Đó không phải là mục đích của họ. Họ không tạo ra tinh hoa, không làm nghiên cứu, không xây dựng ‘tháp chuông trác việt’. Họ chỉ muốn kinh doanh ở lỗ hổng thị trường giáo dục, trong phân khúc riêng, nơi mọi người có nhu cầu lấy mảnh bằng để cải thiện thu nhập tương lai, và cũng đáp ứng cho nhu cầu xã hội địa phương hay khu vực. Họ tạo ra những người có nghề nghiệp, có một số vốn tri thức, và kỹ năng nhất định cần thiết cho cuộc sống. Trong chừng mực nào đó, các công ty giáo dục vì-lợi nhuận có đóng góp nhất định mà các đại học công và đại học phi-lợi nhuận không lấp được. Chất lượng là vấn đề lớn đang tranh luận, và làm sao được bảo đảm tốt. Sự giám sát từ phía nhà nước có thể hữu ích, ít nhất là để loại bỏ các tổ chức kinh doanh ‘ăn xổi ở thì’. Nhưng sự can thiệp từ phía nhà nước cũng có thể đặt ra nhiều vấn đề khác. Còn laissez-faire sẽ gây rối loạn.

(6)

Trước sự nổi lên của đại học tại các châu lục khác, và sự suy giảm đầu tư ở Hoa Kỳ do kinh tế suy thoái, nhiều người lo lắng tính cạnh tranh của đại học, của ưu thế về khoa học công nghệ Mỹ. Báo cáo Rising Above the Gathering Storm (Vượt lên Cơn bão đang tích tụ), năm 2005 của National AcademiesMỹ có lẽ là tiếng chuông cảnh báo được biết đến nhiều nhất. Một nhóm lãnh đạo hàn lâm và kinh doanh cảnh báo về năng lực cạnh tranh đang lên của các quốc gia khác sẽ làm cho vị trí trội bật của Hoa Kỳ suy yếu. Năm 2008, chủ tịch Harvard Drew Faust đưa ra những lời cảnh báo trước Thượng viện Hoa Kỳ về hậu quả của sự cắt giảm quỹ nghiên cứu chính phủ, và về sự cạnh tranh ác liệt từ hải ngoại đang bắt đầu xói mòn vùng đất tài năng của Mỹ. “Thình lình những người đào tạo tại Hoa Kỳ nhận được những cơ hội mới ở nơi khác.”

Nhưng tác giả Ben Wildavsky tin rằng cuộc thương mại tự do trí tuệ (free trade in mind) sẽ đem lại lợi ích cho mọi quốc gia trên thế giới, kể cả cho Hoa Kỳ, đem lại tiến bộ và phồn vinh chung; rằng các đại học tại các quốc gia ngoài Mỹ đang và sẽ vươn lên mạnh mẽ, sẽ có những thành tựu nghiên cứu khoa học ngày càng có chất lượng cao, nhưng không đáng lo, điều đó có lợi hơn có hại. Levin cho rằng sự truyền bá tri thức và mở rộng vốn nhân lực toàn cầu “là một cơ hội hơn là một sự đe doạ”. Toàn cầu hoá, ông viết, là một “trò chơi-có tổng dương, positive-sum game, trong giáo dục cũng như trong kinh tế”, nghĩa là tất cả các bên đều chia sẻ được lợi nhuận. “Toàn cầu hoá giáo dục đại học sẽ làm lợi cho Hoa Kỳ và phần còn lại thế giới bằng cách tăng tốc tiến bộ công nghiệp liên kết với khoa học và kỹ thuật, và bằng cách tiếp thu các cách làm tốt nhất trên thế giới để hạ chi phí sản xuất và giá hàng hoá có thể được” như Richard Freeman, nhà kinh tế của Đại học Harvard viết. Ông cũng cho rằng cạnh tranh toàn cầu về giáo dục đại học sẽ củng cố thêm vị trí của Mỹ như người lãnh đạo giáo dục, hơn là làm suy yếu nó.

Mỹ cũng như các quốc gia khác không nên đóng kín và phòng thủ, và phải mở cửa hơn nữa cho sự trao đổi tự do chất xám. Thực tế các đại học Hoa Kỳ đang phát triển cơ sở giáo dục họ ra ngoài, đặc biệt tại Trung Quốc. Họ đang giúp nâng cao chất lượng đại học và học thuật ở đó vào thời kỳ Trung Quốc đổi mới mạnh mẽ, từng bước nới rộng tự do học thuật, chấp nhận văn hoá trọng đãi nhân tài, trải thảm đỏ cho các học giả hàng đầu, và các đại học đẳng cấp thế giới đến hợp tác. Mở các chi nhánh đại học (branch campus) của các đại học phương Tây, nhất là từ các đại học Hoa Kỳ, đang trở thành một hiện tượng. Hiện nay có đến 162 chi nhánh như thế, một sự tăng trưởng 43% trong ba năm qua.

Dù chia sẻ nhiều hay ít quan điểm này của Wildavsky, những nhà làm chính sách cần phải chuẩn bị cho cuộc chơi mới. Quyển sách là một “sự cân bằng giữa báo động và tự mãn” cho thế giới giáo dục đại học phương Tây đang thống trị (Garret Martin, European Affairs), nhưng đồng thời là lời cảnh báo nghiêm khắc cho các nền đại học còn đang bị những cỗ máy cày nặng nề quan liêu kéo lê trên cánh đồng tham nhũng. Việt Nam chưa có vị trí nào trên bản đồ giáo dục đại học thế giới, và trong tương lai gần cũng chỉ như thế. Đại học Việt Nam chưa được đặt vào đúng trung tâm điểm sinh động của hoạt động quốc gia. Đại học quốc tế được trao sứ mệnh tạo ra sức mạnh tinh thần và vật chất cho xã hội, và là biểu tượng tinh hoa của quốc gia, tạo kỳ vọng cho cá nhân và xã hội, hấp thu và chuyển hoá lực lượng lao động trẻ cho cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hay cạnh tranh kinh tế, đào tạo tinh hoa và đem lại những giá trị mới cho cuộc sống, đem các thành phần xã hội lại gần gũi nhau, và mở rộng dân chủ cho quốc gia. Đại học Việt Nam chưa làm được những việc ấy.

Wildavsky nhắc lại như một lời cảnh báo, GS Philip G. Altbach trong một diễn văn năm 2007 đã phát biểu: “Nhiều đại học trên thế giới không phải là các thể chế trọng đãi nhân tài (meritocratic institutions). Người ta được chọn vào đại học vì quan hệ, hay vì họ nằm trong những thành phần nào đó của dân chúng”, và Wildavsky kết luận rằng: “Đối với các quốc gia hay đại học muốn trở thành bộ phận của một cuộc trao đổi, đối thoại hàn lâm toàn cầu, các chính sách hư hỏng như thế không thể tồn tại.”

Sự cạnh tranh đại học toàn cầu thúc đẩy các quốc gia phải xem xét lại toàn bộ văn hoá đại học, giá trị đại học, các yếu tố phi-học thuật như chính trị, ý thức hệ chi phối; tư tưởng đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, guanxi, móc nối, tôn ti, thiếu tự do học thuật, thiếu văn hoá trọng đãi nhân tài là những chướng ngại giam hãm và làm hại đại học. Đại học cần phải liên kết với các đại học nước ngoài để tạo ra sự lưu thông ý tưởng và văn hoá để luôn luôn có những luồng gió mới đem lại sức sống.

Nhưng một lần nữa: Xin đừng sợ sự nâng cao tri thức thế giới, ‘phương Tây không cần phải hoảng sợ’. Tri thức đã thay đổi thế giới, từ thời Trung cổ, hôm nay, và tương lai. Cuộc di dân trí thức từ thế kỷ 12 và các thế kỷ kế tiếp, rồi đến thời Phục Hưng, đã nâng cao mặt bằng tri thức của các quốc gia châu Âu. Ở đâu có tinh thần học thuật thông thoáng, có văn hoá trọng đãi nhân tài, tri thức sẽ đến. Nhưng đối với Việt Nam, không thể nào không lo lắng cho tiền đồ nền đại học nếu nó cứ mãi dậm chân và tự huỷ hoại. Để đón bắt tinh hoa thế giới, Việt Nam cần phải nỗ lực phi thường.

(7)

Đại học đã giữ vững tên tuổi mình trên thế giới gần ngàn năm qua là vì nó tiếp tục nỗ lực bảo vệ và tăng cường vai trò của chân lý (truth) và phẩm chất xứng đáng (merit) trong thế giới hàn lâm, và phục vụ xã hội, tăng trưởng kinh tế (Clark Kerr). Benjamin Franklin (1706-1790) có lẽ là người Mỹ đầu tiên nhấn mạnh các đóng góp thiết thực của giáo dục cho nông nghiệp, thương mại và công nghiệp. Đó là tinh thần phục vụ cộng đồng của đại học Hoa Kỳ, và điều đó được thực hiện ở quy mô một trăm năm sau.

Đại học được quan niệm có nhiều nhiệm vụ, không phải chỉ là dịch vụ. Ngoài việc phục vụ kinh tế, chính trị, quốc phòng, đại học còn có nhiệm vụ góp phần cải cách xã hội, do đó phải mang tính chất phản biện, dissenting. Noam Chomsky trong bài viết “Trách nhiệm của trí thức” cho rằng, trách nhiệm của họ là “tạo ra và phân tích ý thức hệ”, chứ không phải chỉ là tạo ra các chuyên gia để làm bộ máy xã hội chạy tốt. Ý ông muốn nói: tạo ra ‘triết lý’ cho xã hội là việc có tầm quan trọng hơn.

Đại học cũng đã từng bị quan niệm là ‘ổ du kích’ (partisan camp) phục vụ cho mục tiêu chính trị thuần tuý, chống lại xã hội xung quanh: đó là chiến lược của chủ nghĩa quốc xã Đức, sau đó của Mao Trạch Đông (đại học ‘công nông binh’), và một số mô hình bắt chước khác trong những thập kỷ hậu bán thế kỷ 20. Dĩ nhiên thất bại.

Một đề tài mà quyển sách còn chưa đề cập tới, đó là giáo dục nhân bản, nằm trong phần giáo dục tổng quát, general education, những năm đầu đại học. Howard R. Bowen cho rằng “giáo dục đại học phải là điểm chiến lược chịu lực của đòn bẩy trong việc sửa đổi các giá trị thúc đẩy xã hội”, và “niềm tin chính về một xã hội tốt nằm trong giáo dục” và ông chờ đợi một thời kỳ Phục Hưng của giáo dục tổng quát tại các đại học. Clark Kerr, nhà quản lý giáo dục huyền thoại của Hoa Kỳ, tuy chia sẻ những mong muốn ấy, nhưng lại có ít hy vọng. Ông nói “Giáo dục tổng quát đã suy sụp từ ba trăm năm qua. Nó hầu như bị tàn phá trong những năm cuối 60 và đầu 70. Báo cáo của Quỹ Carnegie cho đó là ‘lãnh vực thảm hoạ’.” Robert Hutchins cho rằng đại học đã trở thành “công nghiệp quốc hữu hoá” như hệ quả của cuộc cách mạng công nghệ và sự hình thành nhà nước-dân tộc, nation-state.

Theo John S. Mill trong “Diễn văn khai giảng”, Inaugural Address, năm 1867 tại Đại học St. Andrew, “tri thức” (knowledge) và “lương tâm” (conscience) hỗ trợ, xoắn lấy nhau, và đại học cần phải biến sinh viên thành những chiến sĩ hiệu quả hơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại không ngừng diễn ra giữa Thượng đế và cái Ác (Evil), trong khi John H. Newman trong quyển “Ý niệm của một đại học”, The Idea of a University, cho rằng điểm nhấn của giáo dục đại học không phải là chân lý mới, mà là minh triết cũ, là ‘dạy tri thức nhân văn’ (liberal knowledge), và chính cái đó mới ‘trang bị cho con người để hoàn tất mọi nhiệm vụ được giao phó thắng lợi, và làm chủ mọi vấn đề một cách dễ dàng’; đại học là dành cho những con người toàn diện (generalist), hơn là chuyên viên (specialist); đại học là nơi dạy những ‘tri thức phổ quát’ (universal knowledge); vâng, đại học là một tháp ngà xinh đẹp (C. Kerr).

(8)

Làn sóng toàn cầu hoá giáo dục đại học ngày càng áp sát Việt Nam, muốn hay không muốn, như một cục nam châm. Ngày 11/4/ 2011, thủ tướng Lý Hiển Long, cùng với chủ tịch Đại học Yale, Richard Levin, một ‘con người toàn cầu hoá’ giáo dục đại học, chính thức làm lễ phát động xây dựng Yale-NUS College Singapore cho chương trình cử nhân 4 năm, nhằm góp phần đào tạo một giai tầng lãnh đạo mới của Singapore, với một chương trình giáo dục nhân văn kết hợp văn hoá Đông Tây ấn tượng, có lẽ là trường hợp đầu tiên tại châu Á. Nếu trước đây Lý Quang Diệu đã “tây hoá” môi trường sống và kinh doanh của Singapore nhằm thu hút phương Tây đến làm ăn, để khách phương Tây cảm thấy gần gũi, và họ (Singapore) đã thành công tuyệt vời, thì nay, dưới thời thủ tướng Lý Hiển Long, Singapore sẽ được nâng cấp lên về mặt văn hoá, chuẩn bị cho chất lượng lãnh đạo với tri thức về hai nền văn hoá Đông – Tây. Họ sẽ là một típ người mới của Singapore. Một thử nghiệm hết sức thú vị. Giáo dục cử nhân có lẽ chỉ là giai đoạn một. Yale-NUS có thể có tham vọng đào tạo các lãnh đạo quốc gia như Yale đã và đang làm, đào tạo các tổng thống, thủ tướng, nhà kinh doanh, chính trị gia, học giả…

Văn hoá đã trở thành yếu tố ngày càng quan trọng trong thế giới toàn cầu hoá, khi mà chủ nghĩa và ý thức hệ lần lần biến mất hay trở thành lỗi thời và tai hại. Cái còn lại sẽ là văn hoá. Samuel Huntington cho rằng thế giới đang bước vào giai đoạn của sự “xung đột văn hoá” (civilizational clash) trong đó con người được đặc trưng không phải bởi ý thức hệ, mà bởi văn hóa với sức mạnh (hay nhược điểm của nó). Không hẳn xung đột. Nhưng văn hoá sẽ có giá trị ngày càng trội bật. Singapore không có ý thức hệ đặc biệt ngoài một số nguyên tắc Khổng giáo phù hợp của nhà lập quốc Lý Quang Diệu, cũng không có tự do theo nghĩa các quốc gia phương Tây, nhưng khá cởi mở, một đặc tính cần thiết của sự thành công kinh tế. Một nền văn hoá đóng kín, bị chính trị hoá hay xơ cứng hoá, sẽ khiến đất nước có thể bị loại ra khỏi cuộc chơi. Sự toàn cầu hoá kinh tế và sự sống còn buộc các dân tộc phải xem xét lại toàn bộ văn hoá của mình, cần tái diễn giải những tư tưởng tiềm tàng trong văn hoá, của Khổng Tử, Lão Tử, Phật giáo,.., loại bỏ những cách nhìn lỗi thời gây cản trở và tăng cường các ý tưởng tích cực, phù hợp với sự đòi hỏi của phát triển xã hội… Tôn giáo phải hỗ trợ sự phát triển đất nước, chứ không được làm cản trở, hay quay lưng. Xung quanh, nhiều quốc gia đều có những tôn giáo giống nhau như Khổng, Phật; tuy các văn hoá đó không tự góp phần tạo ra được nền kinh tế hiện đại (như Tin Lành đã làm), nhưng khi dân tộc và giới lãnh đạo thức tỉnh, các quốc gia đó tạo ra các thần kỳ kinh tế.

Đại học Yale-NUS sẽ khai trương vào năm 2013. Một chương mới của Singapore sẽ bắt đầu. Một vùng “đất hứa” sẽ mở ra. Sự giao lưu và đào sâu văn hoá Đông-Tây sẽ là nhân tố tích cực cho việc phát triển đất nước. Giới tinh hoa Singapore muốn có một primacy, sự ưu việt, cả về văn hóa cho đảo quốc họ. Họ là một dân tộc giàu có, nay càng nghĩ thêm phát triển văn hoá ưu việt cho dân tộc họ. Đấy cũng là cách thu hút thêm giới tinh hoa từ phương Tây cho nền kinh tế ngày càng phải cạnh tranh cao. Hai triệu người nước ngoài sinh sống tại Singapore có thể gửi con em học cử nhân tại Yale-NUS với curriculum thú vị mà không phải lo lắng. Đó cũng là một cách ứng phó của lãnh đạo Singapore với trận chiến nhân lực cao của toàn cầu hoá đã được đề cập nhiều trong giới lãnh đạo và học giả Singapore. Đảo quốc nhỏ bé này có nguy cơ đứng trước sự bốc hơi tài năng, bởi đơn giản tài năng của Singapore đang có giá, và đang được truy tìm trên thị trường. Chính phủ phải tìm cách giữ chân tài năng lại, và bổ sung số mất mát bằng cách thu hút tài năng trẻ mới từ khu vực, được đào tạo với chất lượng cao tại chính Singapore.

(9)

Cuộc Canh Tranh Chất Xám Vĩ Đại là quyển sách cần phải đọc, must-read, gối đầu giường cho những ai muốn có cánh cửa sổ nhìn ra một cuộc chuyển động thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và sẽ ảnh hưởng lên mọi quốc gia, từ những quốc gia phát triển, mới được công nghiệp hoá, đến các quốc gia còn đang trên đường công nghiệp hóa, từ sinh viên đến các bậc phụ huynh, đến các nhà làm chính sách giáo dục. Quyển sách là một ‘kho tàng tri thức’ được cập nhật mới nhất, qui mô, có lý luận phân tích và đúc kết thành nhận thức. Ai muốn xây dựng đại học hiện đại, đại học đẳng cấp quốc tế, ai muốn nhìn vào chiều sâu của lịch sử, sứ mạng của đại học, những vấn đề đại học phải đối mặt tương lai, quan trọng hơn, ai muốn có tầm nhìn, vision, cho nền đại học tương lai của quốc gia mình, đều không nên bỏ qua quyển sách có tính chất ‘khai sáng’ này. Các sách về đề tài đại học hiện đại với chất lượng hàn lâm hiện nay rất thiếu vắng tại Việt Nam.

Quyển sách Cuộc Canh Tranh Chất Xám Vĩ Đại của tác giả Ben Wildavsky được chọn lọc và chuyển ngữ trong khuôn khổ hoạt động kỷ niệm Đại học Humboldt lịch sử 200 năm tuổi, mà kết quả của hoạt động này là số Kỷ yếu ĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010) (NXB Tri Thức, 2011), với nhóm chủ biên: Ngô Bảo Châu, Cao Huy Thuần, Pierre Darriulat, Hoàng Tuỵ, Phạm Xuân Yêm và Nguyễn Xuân Xanh, và với sự đóng góp của trên bốn mươi tác giả trong và ngoài nước. Đây là một tư liệu quy mô đầu tiên về lịch sử đại học hiện đại, về tinh thần và sứ mệnh của đại học, kinh nghiệm thế giới, và tình hình đại học Việt Nam do các học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam biên soạn. Quyển sách rất cần thiết được đọc kèm để hiểu thêm đại học thế giới. Đại học là vấn đề sinh tử cho một quốc gia: to be or not to be.

Bây giờ các bạn đọc thân mến, xin hãy mở ra những trang sách của Cuộc Canh Tranh Chất Xám Vĩ Đạicủa Ben Wildavsky để ‘thưởng thức’ lẫn ‘hồi hộp’, qua đó hình dung sự thâm thụt hiện tại của đại học Việt Nam và tương lai của nó cần phải ra sao. Không như Ben Wildavsky nhắn nhủ, tôi đọc quyển sách mà thấy sợ cho Việt Nam lắm. Thông điệp của quyển sách gửi đến người Việt Nam, nhất là các cấp lãnh đạo cao nhất: phải nhanh chóng tiến lên toàn cầu hoá nền đại học của mình, cải cách cơ chế và tổ chức, quản lý, chế độ, kết nối với các đại học hàng đầu thế giới, ‘quốc tế hoá’ hoạt động của đại học, đẩy mạnh Anh ngữ làm ngôn ngữ quen thuộc trong học tập, nghiên cứu và giao dịch, thay đổi văn hoá, chấp nhận văn hoá trọng đãi tài năng, đầu tư mạnh mẽ vào một số ít đại học quốc gia, một số khoa, ngành chủ lực, để trở thành đại học hướng lên đẳng cấp, mà chưa mong đạt tới đẳng cấp, hãy mở các ngành khoa học công nghệ cao, thuê các nhà khoa học và quản lý giỏi thế giới tiếp sức. Đây phải là một cuộc đầu tư lớn gắn liền với sự phát triển của đất nước và quốc phòng, với sự bền vững non sông.

NXX

2012

Tài liệu tham khảo

  1. Hovard R. Bowen, The State of the Nation and the Agenda for Higher Education. Jossey-Bass, 1982.
  2. Gerhard Casper, Ưu điểm của Đại học Nghiên cứu Tập trung. Đại học Thế kỷ 21. Trong Kỷ yếu ĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010). NXB Tri Thức, 2011. Trang 739-753.
  3. Noam Chomsky, The Responsibility of Intellectuals. The New York Review of Books, February 23, 1967.
  4. Claudia Goldin and Lawrence F. Katz, The Race between Education and Technology. The Belknap Press of Harvard University Press, 2008.
  5. Clark Kerr, The Great Transformation in Higher Education 1960-1980. State University of New York Press, Albany, 1991.
  6. John Stuart Mill, Inaugural Address. Đọc tại Đại học St. Andrews, 1867. Trong Robert M. Hutchins and Mortimer J. Adler (eds), The Great Ideas Today 1969. The University Today. William Benton Publisher, 1989.
  7. Mạng Pak Tee Ng, Singapore và sự ứng phó với chiến trận toàn cầu về tài năng. Trong International Journal of Educational Development 31 (2011), 262–268. Bản dịch của Nguyễn Tiến Bình, trong http://chrd.edu.vn/site/vn/?p=2765
  8. John Henry Newman, The Idea of a University. Frank M. Turner Editor. Yale University Press, 1996.
  9. Nguyễn Văn Tuấn, Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập. NXB Tri Thức & Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 2011.
  10. Ben Wildavsky, The Great Brain Race. Princeton University Press, 2010
  11. Nguyễn Xuân Xanh, Đại học. Lịch sử một ý tưởng. Trong Kỷ yếu ĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM (1810-2010). Chủ biên: Ngô Bảo Châu – Pierre Darriulat – Cao Huy Thuần – Hoàng Tuỵ – Nguyễn Xuân Xanh – Phạm Xuân Yêm. NXB Tri Thức 2011. Trang 33-143.
  12. Đại học Yale-NUS Singapore: http://www.ync.nus.edu.sg.

Chú giải:

1. The Great Brain Race. How Global Universities Are Reshaping the World. Tác giả: Ben Wildavsky, nxb Princeton University Press, 2010.

Chúc Anh Chị ngày vui!

X